Hướng dẫn xây dựng trường học an toàn thân thiện và bình đẳng phòng chống bạo lực học đường

Tài liệu “Hướng dẫn Xây dựng Trường học An toàn Thân thiện Bình đẳng, phòng chống Bạo lực học
đường trên cơ sở giới” được Tổ chức Plan International Việt Nam hợp tác với Bộ Giáo dục và Đào tạo
phát triển trong khuôn khổ Dự án Trường học An toàn Thân thiện và Bình đẳng.
“Hướng dẫn xây dựng Trường học An toàn Thân thiện Bình đẳng, phòng chống Bạo lực học đường
trên cơ sở giới” đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt tại Quyết định số 2940/QĐ-BGDĐT ngày
10/10/2022. Tài liệu được sử dụng để hướng dẫn cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên thực hiện công
tác xây dựng và bảo đảm môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện và phòng chống bạo
lực học đường.
Để hoàn thành được cuốn Tài liệu Hướng dẫn này, Tổ chức Plan International Việt Nam xin trân trọng
cảm ơn Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo cùng đông đảo các giáo viên và học sinh
tại 299 trường học tại 6 tỉnh, thành phố Hà Nội, Hà Giang, Lai Châu, Quảng Bình, Quảng Trị và Kon
Tum đã hợp tác và đồng hành cùng Plan International Việt Nam trong thực hiện thành công thí điểm
và nhân rộng mô hình Trường học An toàn Thân thiện và Bình đẳng tại 6 tỉnh, thành phố giai đoạn
2013-2016 và 2018-2022. Đặc biệt, chúng tôi chân thành cảm ơn sự hợp tác và hỗ trợ hiệu quả của
Vụ Giáo dục Chính trị và Công tác Học sinh sinh viên – Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn nhóm chuyên gia thuộc Ban Biên soạn đến từ Viện Khoa học Giáo
dục Việt Nam và Bộ Giáo dục và Đào tạo, các thành viên trong Hội đồng Thẩm định Tài liệu về những
đóng góp cho Tài liệu! .
Xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp tại Văn phòng Tổ chức Plan International Việt Nam về sự
đóng góp trong suốt quá trình thực hiện dự án và xây dựng bộ tài liệu này. Chúng tôi rất biết ơn sự
nỗ lực của tất cả mọi người và khẳng định rằng sự hỗ trợ của tất cả mọi người đã đem đến được kết
quả thành công tốt đẹp!

1. MỞ ĐẦU
Trong giáo dục phổ thông, trường học là thiết chế giáo dục chính thống, nơi mà các hoạt động dạy và
học được diễn ra; với các mối quan hệ giữa các thành viên nhà trường, chủ yếu và đặc trưng là quan hệ
thầy – trò, đồng nghiệp (thầy – thầy), bạn bè (trò – trò). Các mối quan hệ này chính là những “kênh” để qua
đó mỗi thành viên mà đặc biệt là học sinh được tiếp thu các giá trị văn hóa bằng cơ chế “tập nhiễm”/hoặc
“bắt chước”, “thực hành”/hoặc “trải nghiệm” để hình thành những kỹ năng, thái độ, niềm tin và giá trị mà
mục tiêu giáo dục đã đặt ra, như: tôn trọng con người và tri thức, sống có trách nhiệm, tôn trọng sự cam kết
và kỷ cương, tự trọng, trung thực, nhân ái, đoàn kết, bao dung, bình đẳng, hợp tác.
Hiện nay, các quan hệ xã hội trong nhà trường mang tính chuẩn mực đang được quy định “cứng”, như:
điều lệ nhà trường, nội quy nhà trường, quy tắc ứng xử, bản cam kết … và những quy định “mềm”, như:
khẩu hiệu, quy ước, xu hướng và thói quen ứng xử của đa số thành viên trong nhà trường… Đồng thời, việc
tuân thủ các quy định nêu trên được giám sát, đánh giá thường xuyên và có cơ chế khen thưởng, trách
phạt hoặc sự đồng tình hay phản đối nhằm điều chỉnh nhận thức và hành vi của mọi thành viên trong
nhà trường. Tuy nhiên, những hạn chế tồn tại, bất cập trong môi trường giáo dục nói chung, ở trường phổ
thông nói riêng, trong đó vấn đề “bạo lực”, thiếu “mô phạm” và “bất bình đẳng” vẫn đang là rào cản trong
thực thi hoá mục tiêu giáo dục. Cụ thể là, bạo lực học đường trên cơ sở giới đã gây ảnh hưởng đến sức
khỏe thể chất, sự phát triển về tâm hồn và có thể gây ra hậu quả lâu dài khác (Pinheiro 2006), như: các rủi
ro về bỏ học hoặc sa sút kết quả học tập, rèn luyện,… Thực tế, bạo lực là quá trình tiếp diễn, người gây bạo
lực và nạn nhân có những mối liên hệ nhất định. Do vậy, việc giáo dục học sinh về nhận thức, kỹ năng tôn
trọng, bình đẳng, thân thiện và phòng ngừa các hành vi bạo lực ở trong và ngoài trường học là vô cùng
quan trọng. Trường học là một môi trường lý tưởng để giúp trẻ vị thành niên học hỏi và thực hành hành
vi tôn trọng, bình đẳng, trong đó có nội dung thay đổi định kiến giới cũng như thực hành các vai trò giới.
Ở Việt Nam, qua các phương tiện thông tin đại chúng thời gian gần đây cho thấy, BLHĐTCSG cùng với
những hành vi ứng xử thiếu tôn trọng và thân thiện trong trường học đã không phải hiếm gặp và nó đang
trở thành mối lo của cha mẹ học sinh, ngành giáo dục và toàn xã hội, gây ra những ảnh hưởng tiêu cực
đến sự phát triển văn hoá học đường, đến môi trường học tập an toàn và thân thiện trong nhà trường.
Các báo cáo nghiên cứu về BLHĐTCSG ở cấp quốc gia và quốc tế (theo uỷ thác của tổ chức Plan
International), đã khẳng định vai trò của hệ thống chính sách và khung pháp lí liên quan việc xử lý bạo
lực học đường, đồng thời đưa ra một số chương trình phòng ngừa, can thiệp; trong đó ‘cách tiếp cận/can
thiệp toàn nhà trường’ (whole-school approach/intervention) đối với vấn đề bạo lực và bắt nạt được đánh
giá là đem lại hiệu quả tích cực hơn cả.
Trong bối cảnh đó, đã có nhiều sáng kiến và chương trình hoạt động của Chính phủ, của ngành giáo dục,
cùng với sự đồng hành và hỗ trợ tích cực của một số ban ngành và tổ chức quốc tế, nhằm tạo dựng môi
trường học đường an toàn, thân thiện, bình đẳng. Riêng đối với ngành giáo dục, trong giai đoạn 2015-2019
đã có nhiều chính sách liên quan đến vấn đề này, như: Luật Giáo dục 2019, Điều 93 đã quy định trách nhiệm
của xã hội là “Tham gia xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, ngăn chặn hoạt động có ảnh

TÀI LIỆU DÀNH CHO CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ 7
hưởng xấu đến người học”; Nghị định số 80/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 của Chính phủ quy định môi trường
giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng, chống bạo lực học đường; Quyết định số 1501/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho
thanh niên, thiếu nhi giai đoạn 2015 – 2020” và tiếp nối là Quyết định số 1895/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chương trình “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống và khơi dậy khát
vọng cống hiến cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng giai đoạn 2021 – 2030”; Quyết định số 1299/QĐ-TTg phê
duyệt Đề án “Xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học giai đoạn 2018 – 2025”; Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày
16/05/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em; …
Bộ GDĐT cũng ban hành nhiều văn bản chính sách nhằm hướng đến môi trường giáo dục an toàn, thân
thiện, bình đẳng, phòng, chống bạo lực học đường như: Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BCA-BGDĐT
ngày 28/8/2015 của Bộ Công an – Bộ GDĐT; Thông tư số 31/2017/TT-BGDĐT ngày 18/12/2017, Bộ GDĐT
đã có hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện công tác tư vấn tâm lý cho học sinh trong trường phổ thông;
Chỉ thị số 505/CT-BGDĐT ngày 20/02/2017 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về việc tăng cường các giải pháp đảm
bảo an toàn trong các cơ sở giáo dục; Quyết định số 5886/QĐ-BGDĐT ngày 28/12/2017 ban hành Chương
trình hành động Phòng, chống bạo lực học đường trong các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ
thông và giáo dục thường xuyên giai đoạn 2017 – 2021 tiếp nối bằng Quyết định số 5886/QĐ-BGDĐT
ngày 28/12/2017 ban hành Chương trình hành động Phòng, chống bạo lực học đường trong các cơ sở
giáo dục mầm non, giáo dục; Thông tư số 06/2019/TT-BGDĐT về việc quy định Quy tắc ứng xử trong cơ sở
giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục thường xuyên, Chỉ thị số 993/CT-BGDĐT/2017
về việc tăng cường giải pháp phòng, chống bạo lực học đường trong cơ sở giáo dục; Quyết định số 3296 /
QĐ-BGDĐT ngày 30 tháng 8 năm 2018 phê duyệt Đề án “Tăng cường quản lý, giáo dục chính trị, tư tưởng
đối với học sinh, sinh viên trên môi trường mạng đến 2025”,…
Có thể thấy rằng từ năm 2015 đến nay Chính phủ và Bộ GDĐT đã ban hành khá nhiều văn bản, chính sách
liên quan trực tiếp đến vấn đề xây dựng trường học an toàn, thân thiện, bình đẳng, phòng chống bạo lực
học đường. Đây là những hướng dẫn, quy định cụ thể để tạo điều kiện cho hoạt động phòng ngừa, ngăn
chặn và xử lý với những hành vi BLHĐTCSG.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng về kiến thức, hành vi của học sinh, của các thầy cô giáo và cha mẹ học
sinh trong vấn đề tôn trọng, bình đẳng và bạo lực liên quan đến giới trong nhà trường, để đề xuất triển
khai Mô hình trường học an toàn, thân thiện, bình đẳng. Từ năm 2013 đến 2016, mô hình trường học an
toàn, thân thiện, bình đẳng đã được Plan International Việt Nam thử nghiệm thành công tại Hà Nội, với
quy mô 20 trường trung học cơ sở và trung học phổ thông và hiện đang được Sở GDĐT Hà Nội duy trì
và nhân rộng. Đến tháng 10/2018, Bộ GDĐT đã chính thức hợp tác cùng Tổ chức Plan International Việt
Nam, nhân rộng mô hình trường học an toàn, thân thiện, bình đẳng trên cơ sở giới đến 47 trường phổ
thông dân tộc nội trú/hoặc bán trú tại 05 tỉnh: Hà Giang, Lai Châu, Kon Tum, Quảng Trị và Quảng Bình.
Đây là mô hình hướng đến giải quyết vấn đề bạo lực học đường liên quan đến yếu tố giới (BLHĐTCSG)
trong trường học. Mô hình được xây dựng theo phương thức kết hợp các biện pháp phòng ngừa (như: nâng
cao nhận thức, đào tạo đội ngũ giáo viên), các biện pháp ứng phó (như: dịch vụ hỗ trợ, hệ thống báo cáo) ở
cấp độ cá nhân và tổ chức.
Việc tổ chức tập huấn cho các nhà trường để thực hiện đại trà mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới
(theo mô hình của tổ chức Plan tại Việt Nam)sẽ giúp cho CBQL, giáo viên, giáo viên tư vấn tâm lí, cán bộ
Đoàn – Đội được nâng cao năng lực hỗ trợ học sinh trong việc phòng ngừa và ứng phó với BLHĐTCSG;
bổ sung kiến thức Giới trong các môn học và hoạt động giáo dục; tài liệu hướng dẫn học sinh ứng xử
với mạng xã hội,… Đồng thời, giúp thực hiện tốt hơn công tác giáo dục nề nếp, kỷ cương trong trường
học; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy tắc ứng xử trong trường học (theo Thông tư số
06/2019). Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tại các cơ sở giáo dục THCS nói riêng và chất
lượng giáo dục phổ thông ở Việt Nam nói chung.

Trong bối cảnh nhà trường phổ thông đang từng bước triển khai chương trình 2018, việc nâng cao nhận
thức cho giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh cần có các giải pháp và chiến lược tổng thể, lâu dài của nhà
trường với cách tiếp cận toàn diện, “toàn nhà trường”; với phương thức đa dạng, vừa tích hợp trong môn
học và hoạt động giáo dục, vừa thực hiện độc lập ngoài giờ chính khoá ở trường học; nhằm xây dựng
trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới cho mọi học sinh. Trong chương trình GDPT 2018, có một số nội dung
giáo dục liên quan đến việc xây dựng trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới đã được đưa vào các môn học
và hoạt động giáo dục (như: Giáo dục công dân, Ngữ văn, Hoạt động Trải nghiệm, hướng nghiệp…). Tuy
nhiên, với thời lượng quy định sẽ chỉ giới hạn một số kiến thức và hoạt động. Việc hướng dẫn triển khai
mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới sẽ giúp giáo viên và nhà trường tổ chức linh hoạt các hoạt
động, nhằm giúp học sinh mở rộng, khắc sâu kiến thức trong môn học/ hoặc hoạt động giáo dục; Và, đặc
biệt là giúp các thành viên trong trường và cha mẹ học sinh được nâng cao nhận thức và phát triển kỹ
năng tạo dựng môi trường trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới.
Điều này sẽ khắc phục tình trạng, triển khai xây dựng môi trường giáo dục chỉ thể hiện ở một số đợt
tuyên truyền rầm rộ mang tính phong trào hay những hoạt động riêng rẽ của các dự án cụ thể. Cần đặc
biệt chú trọng phát triển, xây dựng đội ngũ giáo viên thông qua các tập huấn chuyên môn, sinh hoạt
chuyên đề về các vấn đề giới, bình đẳng giới, đa dạng giới, phòng chống BLG, tư vấn tâm lý học đường…
để bảo đảm giáo viên có được nhận thức đúng đắn, cũng như kĩ năng xử lý các khó khăn. Hơn nữa, các
nhà trường cần quan tâm hơn đến kỹ năng sống, hành vi ứng xử văn hóa và tâm lý học sinh; hoàn thiện
cơ chế báo cáo khi có bạo lực xảy ra và phổ biến đến cá nhân học sinh, gia đình cho học sinh để các em
và cha mẹ các em chủ động chia sẻ với thầy cô, bạn bè nhằm xử lý sớm để giảm thiểu vấn đề bạo lực, cần
triển khai công tác TVTL để đảm bảo đi vào thực chất, chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch phòng
ngừa, ứng phó BLHĐTCSG; thường xuyên tổ chức giáo dục kiến thức về BLHĐTCSG cho cán bộ, giáo viên,
cha mẹ học sinh và học sinh; đồng thời, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, trong đó có các kỹ năng cơ
bản trong phòng, chống bạo lực và xâm hại tình dục trong trường học.
2. MỤC ĐÍCH XÂY DỰNG TÀI LIỆU
Tài liệu được biên soạn với mục tiêu nâng cao nhận thức và hướng dẫn quy trình, cách thức để các giáo
viên và nhà trường THCS có thể chủ động, sáng tạo trong tổ chức triển khai mô hình trường học an toàn,
thân thiện, bình đẳng trên cơ sở giới; thông qua việc dạy học trên lớp và/ hoặc tích hợp, tổ chức hoạt
động giáo dục, đáp ứng yêu cầu của chương trình GDPT 2018.
3. ĐỐI TƯỢNG SỬ DỤNG TÀI LIỆU
Đây là tài liệu hướng dẫn triển khai mô hình trường học an toàn, thân thiện và bình đẳng trong trường

TÀI LIỆU DÀNH CHO CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ 9
THCS. Đối tượng chủ yếu sử dụng tài liệu này là CBQL và giáo viên trường THCS. Ngoài ra, học sinh và cha
mẹ học sinh là các đối tượng có liên quan trong một số hoạt động của mô hình này.
Đi kèm với cuốn tài liệu này là một bộ tài liệu kỹ thuật chi tiết cho việc triển khai các hợp phần khác nhau
của một trường học An toàn, Thân thiện và Bình đẳng trên cơ sở giới, bao gồm:
1. Tài liệu Giảng dạy về phòng chống và ứng phó với Bạo lực trên cơ sở giới trong trường học – dành cho
giáo viên THCS. Link:.https://bit.ly/3D4g5NR.
2. Sách bài tập về Phòng chống và ứng phó với Bạo lực trên cơ sở giới trong trường học – dành cho học
sinh THCS. Link: https://bit.ly/3so7ssm.
3. Tham vấn học đường (Tài liệu dành cho cán bộ tham vấn học đường). Link: https://bit.ly/3zcnmKg.
4. Chúng mình là Lãnh đạo trẻ/Thủ lĩnh Thay đổi – Link: https://bit.ly/3FgKB9M.
5. Tài liệu truyền thông cho cha mẹ học sinh về bình đẳng giới và ngăn ngừa, ứng phó với bạo lực giới
học đường. Link: https://bit.ly/3gIcdus.
6. Quy ước trường học An toàn, Thân thiện và Bình đẳng. Quy ước lớp học an toàn, thân thiện và bình
đẳng (Phụ lục 3)
4. GIỚI THIỆU VỀ MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC ATTTBĐ TRÊN CƠ SỞ GIỚI
4.1. Quan điểm chung
Trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới là môi trường học đường văn minh, ở đó cán bộ quản lí và các thành
viên khác của nhà trường cùng tạo ra sự bảo vệ an toàn, thúc đẩy sự tôn trọng và bình đẳng giới.
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực
của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát
triển đó1
. Thực hiện trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới là xây dựng các giải pháp nhằm giải quyết các định
kiến và hành vi bạo lực trường học; trong đó có định kiến và bạo lực giới. Thông qua các hoạt động có chủ
đích, sẽ làm thay đổi thái độ, quan điểm theo hướng tích cực giữa giáo viên, cán bộ công nhân viên, học
sinh và gia đình học sinh trong trường. Trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới có giá trị thực tiễn cho các nhà
quản lý giáo dục mong muốn thúc đẩy tôn trọng, bình đẳng giới và ngăn ngừa bạo lực trong trường học.
“An toàn” là khái niệm bao trùm một phần “thân thiện” và “bình đẳng”. Ở mô hình trường học này, “thân
thiện” là điều kiện để tổ chức giáo dục, đảm bảo rằng mỗi ngày đến trường là một ngày vui không chỉ là
đối với học sinh mà là cả đối với CBgiáo viên, người lao động của trường học. Đồng thời, sự “bình đẳng”
trong trường học là cơ sở của thân thiện, an toàn, phòng ngừa BLHĐ trong đó có bạo lực giới. Bởi lẽ, bất
bình đẳng giới là nguyên nhân của mâu thuẫn, xung đột và dẫn đến BLG. Hơn nữa, các hành vi BLG là để
củng cố vai trò giới và duy trì sự bất bình đẳng giới.
Bạo lực giới bao gồm các hành vi: hiếp dâm, động chạm tình dục không mong muốn, bình luận không
mong muốn về tình dục, trừng phạt thân thể, bắt nạt, quấy rối bằng lời nói, cử chỉ. Mối quan hệ bất bình
đẳng giữa người lớn và trẻ em, nam và nữ cũng có thể dẫn tới bạo lực. Bạo lực có thể xảy ra trong hoặc
thuộc khuôn viên trường học, trên đường đi học và ở nhà. Người gây ra bạo lực có thể là giáo viên, nhân
viên, cán bộ quản lí, học sinh, hoặc các thành viên trong cộng đồng, ở gia đình. Cả các em trai và em gái
đều có thể là nạn nhân hay là người gây ra bạo lực.
Mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới tập trung vào việc nâng cao nhận thức, tạo dựng mối quan

hệ bình đẳng, cơ chế hỗ trợ, can thiệp để đảm bảo cho học sinh được bảo vệ trước các hành vi bạo lực.
Việc giúp học sinh được an toàn trước các hành vi về bạo lực hoàn toàn có thể thực hiện được tại tất cả
các trường học hiện nay, với điều kiện cơ sở vật chất sẵn có.
4.2. Cách tiếp cận của mô hình
Tiếp cận tổng thể – Mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới thu hút sự tham gia của học sinh/vị thành
niên, thầy giáo, cô giáo, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục, nhân viên trường học, cha mẹ học sinh, cơ quan
báo chí và cộng đồng để góp phần đem đến sự thay đổi tích cực trong thái độ, hành vi của cá nhân có liên
quan và xây dựng môi trường không phân biệt đối xử về giới ở trường học, từ đó lan tỏa ra cộng đồng.
Tiếp cận tổng thể được thể hiện ở một số mặt sau. Một là, muốn đem đến sự thay đổi tích cực trong học
sinh thì trước hết các cán bộ quản lý, thầy giáo, cô giáo, nhân viên nhà trường phải có thay đổi nhận
thức theo hướng tích cực, nêu gương cho học sinh và phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với nhau trong trong
việc xây dựng môi trường an toàn trên cơ sở thực hiện bình đẳng giới. Hai là, nhà trường phải chủ động
phối hợp với cha mẹ học sinh để họ cùng đồng hành trong việc giáo dục học sinh, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc phòng chống bạo lực trên cơ sở bình đẳng giới. Ba là, mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ
sở giới phải được các cơ quan quản lý giáo dục, chính quyền địa phương thống nhất chỉ đạo nhất quán;
các đoàn thể, tổ chức xã hội đồng tình, ủng hộ, phối hợp chặt chẽ để đảm bảo môi trường an toàn nhất
cho học sinh. Mô hình này phải được xây dựng trên phạm vi rộng ở các khu vực, địa phương để tạo sự
an toàn bền vững cho toàn bộ học sinh ở trong và ngoài trường, học sinh của các trường khác nhau trên
cùng địa bàn và cả trên môi trường mạng. Bốn là, mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới cần được
gắn chặt với chương trình hoạt động của nhà trường, ngành giáo dục, địa phương, xã hội và được duy
trì, phát triển ngày càng hoàn thiện.
Lấy học sinh làm trung tâm – học sinh (nam và nữ) được lấy làm trung tâm trong tất cả các nội dung hoạt
động của mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới. Thứ nhất, mục tiêu của trường học ATTTBĐ trên
cơ sở giới là xuất phát từ việc học sinh được bảo vệ an toàn trước bạo lực cho cả nữ và nam học sinh. Thứ
hai, sự tham gia tích cực và chủ động của học sinh được thúc đẩy qua quá trình tuyển chọn công khai
thành viên Câu lạc bộ Thủ lĩnh thay đổi, hỗ trợ các em đưa ra các sáng kiến truyền thông và tổ chức các
sự kiện truyền thông rộng rãi và truyền thông chuyên sâu. Bên cạnh đó, các em còn cùng giáo viên chủ
nhiệm, chuẩn bị các nội dung cho tiết học về ngăn ngừa và ứng phó với bạo lực giới học đường, là cầu
nối bạn bè đến phòng tham vấn và chủ động trong các hoạt động củng cố kiến thức thông qua sách bài
tập ở nhà, có tương tác với anh chị em và các thành viên trong gia đình. Thứ ba, vai trò trung tâm của học
sinh còn được thực hiện trong các hoạt động phản hồi, đánh giá hiệu quả của tất cả các hoạt động của
xây dựng trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới, bao gồm: phiếu góp ý kiến của học sinh về tiết giảng, hoạt
động truyền thông, hiệu quả của hoạt động tham vấn. Thứ tư, lực lượng học sinh là đông nhất của mỗi

TÀI LIỆU DÀNH CHO CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ 11
nhà trường, các em thường xuyên gần nhau trong mọi hoạt động, mọi lúc, mọi nơi, có những bạn bè thấu
hiểu tâm lý của nhau và có thể dự báo sớm, ngăn chặn được nguy cơ có thể xảy ra bạo lực giữa một số
học sinh. Nếu học sinh có nhận thức đúng đắn, rõ ràng, được rèn luyện kĩ năng, chủ động, tự tin, tích cực
hỗ trợ bạn bè, phê phán hiện tượng sai trái thì trong công tác phòng và ứng phó với BLG trong học tập,
rèn luyện, vui chơi ở trong và ngoài nhà trường sẽ có hiệu quả cao, bền vững.
Qua kinh nghiệm của xây dựng mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới vừa qua ở Hà Nội và 05 tỉnh,
khi vận hành CLB Thủ lĩnh thay đổi, học sinh chủ động, sáng tạo trong truyền thông về phòng và ứng
phó với BLHĐTCSG. Số vụ việc mâu thuẫn, xung đột, bạo lực, có vướng mắc về tâm lý sẽ giảm cả về số vụ
và mức độ. Các vụ việc xảy ra được xử lý dễ và nhẹ nhàng hơn do mọi người đều có nhận thức tốt hơn về
giải quyết mâu thuẫn, xung đột. Học sinh là trung tâm kết nối giữa các thành viên nhà trường, giữa nhà
trường với cha mẹ học sinh và các tổ chức có liên quan trong phòng và ứng phó với BLHĐTCSG.
4.3. Tác động của việc xây dựng mô hình
Nâng cao năng lực và tạo sự thay đổi chủ động từ giáo viên, cán bộ nhà trường
Cán bộ quản lý, giáo viên và các cán bộ công nhân viên của trường học được nâng cao nhận thức và kiến
thức về tôn trọng, bình đẳng và phòng, ứng phó với BLHĐTCSG thông qua các hoạt động đào tạo hàng
năm. Các tiết giảng trên lớp, truyền thông toàn trường, họp cha mẹ học sinh, giúp giáo viên và cán bộ áp
dụng kiến thức được học vào công việc hàng ngày và giúp họ thực hiện vai trò gương mẫu trong thực
hiện xây dựng trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới để học sinh noi theo.
Thúc đẩy và gắn chặt mối quan hệ Gia đình – Nhà trường và Xã hội
Mô hình thí điểm trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới sẽ được triển khai dựa trên hệ thống sẵn có của nhà
trường. Các bậc cha mẹ được huy động tham gia thông qua các hoạt động của Hội cha mẹ học sinh nhà
trường và hoạt động họp cha mẹ học sinh với GVCN 3 lần/mỗi năm học. Thông qua việc nâng cao nhận
thức, cung cấp kỹ năng cho các bậc cha mẹ và chia sẻ những quan tâm, khó khăn của học sinh đến với
các bậc cha mẹ, các nhà trường sẽ tạo được sự tin tưởng và ủng hộ của cha mẹ học sinh cả về mặt tinh
thần và vật chất. Như vậy, khi thực hiện trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới, học sinh là đối tượng hưởng
lợi chính, đồng thời CBgiáo viên, nhân viên, cha mẹ học sinh cũng là người được hưởng lợi vì có thêm
nhận thức mới và từ đó có hành vi ứng xử phù hợp trong công việc và cuộc sống của mình. Từ hướng
dẫn chung, các nhà trường ở các khu vực khác nhau có cách thực hiện sáng tạo, phù hợp với điều kiện
tại cơ sở. Có thể nói, chính các nhà trường đã sáng tạo lại mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới từ
nguyên lý, nguyên tắc, hướng dẫn khung thành mô hình phù hợp, thành công tại mỗi trường. Điều này
được thể hiện ở trong mỗi nhà trường và lan tỏa đến mỗi gia đình học sinh, mỗi gia đình CBgiáo viên,
nhân viên của nhà trường. Mục tiêu và các hoạt động của mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới đáp
ứng nhu cầu phát triển toàn diện, phát huy năng lực và sự tham gia của học sinh trong các hoạt động
giáo dục trong trường, ở gia đình là có hiệu quả tốt, phù hợp với mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện
GDĐT hiện nay.
4.4. Cấu trúc mô hình Trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới
Mô hình tiếp cận tổng thể này đưa ra 04 hợp phần để giải quyết vấn đề từ nhận thức, rèn luyện kĩ năng
đến hỗ trợ, can thiệp và phối hợp đồng bộ trong phòng và ứng phó BLHĐTCSG, bao gồm: (i) Các tiết giảng
trên lớp; (ii) Phòng tham vấn học đường; (iii) Câu lạc bộ Thủ lĩnh thay đổi và (iv) Hoạt động của cha mẹ học
sinh. Với mỗi hợp phần, cuốn tài liệu được trình bày theo 05 phần chính sau: (i) Ý nghĩa, (ii) Quy trình tổ chức,
(iii) Nguồn lực, (iv) Giám sát và đánh giá, (v) Bài học kinh nghiệm. Trong mỗi phần, tài liệu đều đưa ra các bước
triển khai và khuyến nghị cụ thể cho hoạt động nhân rộng.

12 Hướng dẫn xây dựng trường học an toàn, thân thiện, bình đẳng, phòng chống bạo lực học đường trên cơ sở giới
5. HIỆU QUẢ TRIỂN KHAI MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC ATTTBĐ TRÊN CƠ SỞ GIỚI
Mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới đã được tổ chức Plan International hỗ trợ thực hiện tại Hà Nội
(2013-2016) và 5 khu vực nông thôn, miền núi tại 05 tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Kon Tum, Hà Giang, Lai
Châu (2018-2021). Tính hiệu quả, khả thi của mô hình đã được khẳng định, thể hiện ở các kết quả thực
hiện các hoạt động thuộc 4 tiểu mô hình, tại các trường THCS thuộc 6 tỉnh thành, như phân tích dưới đây:
5.1. Sự thay đổi trong nhận thức, thái độ, hành vi của các đối tượng tham gia
5.1.1. Đối với học sinh
Mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản
nhằm nâng cao nhận thức mà còn góp phần rèn luyện kỹ năng, thay đổi thái độ, hành vi của các em về
các vấn đề liên quan đến giới như: vai trò giới; khuôn mẫu giới; bình đẳng giới; phòng tránh, xử lý khi đối
diện với các hình thức bạo lực giới khác nhau trong trường học;….Gia tăng tỷ lệ học sinh nữ và học sinh
nam luôn sẵn sàng chia sẻ các tình huống khó khăn hay tình trạng bạo lực, cũng như sự gia tăng về số
học sinh có kỹ năng ứng phó và chủ động tham gia vào việc phòng chống và ứng phó với bạo lực trên cơ
sở giới trong trường học nếu các em và các bạn gặp phải. Ngoài ra, các em học sinh nữ và học sinh nam
đã hiểu biết hơn và ủng hộ cho bình đẳng giới; đã được tham gia nhiều hơn các hoạt động ở trường học,
cảm thấy an toàn hơn trong trường học, số học sinh nghỉ học giảm, góp phần nâng cao chất lượng dạy
và học trong nhà trường.
5.1.2. Đối với giáo viên
Mô hình trên đã góp phần trang bị cho giáo viên kiến thức và công cụ hỗ trợ để giảng dạy kiến thức về
bình đẳng giới; phương pháp kỷ luật tích cực, quy trình ứng phó, ngăn ngừa BLHĐTCSG. Bên cạnh đó,
trong quá trình thực hiện thí điểm, giáo viên được bổ sung thêm các kỹ năng điều hành, kỹ năng lập kế
hoạch, giữ vai trò cố vấn, hỗ trợ cho học sinh về thúc đẩy bình đẳng giới và phòng chống BLHĐTCSG.

Giáo viên có nhận thức đúng hơn về BLHĐTCSG biết cách giải quyết các vấn đề BLHĐTCSG trong môi
trường học đường một cách tổng thể; thay đổi về hành vi, thái độ khi đứng trước học sinh, 100% giáo
viên tích cực tham gia các buổi tập huấn, truyền thông do nhà trường tổ chức; các tiết dạy về phòng
chống BLHĐTCSG có sự đầu tư, chuẩn bị chu đáo, cách tổ chức tiết dạy thu hút được sự hứng thú của học
sinh. Vai trò của GVCN, giáo viên tổng phụ trách đội, tổ tham vấn ngày càng được nâng lên. Giáo viên đã
tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành và duy trì thái độ bình đẳng giới trong học sinh; học sinh
cảm nhận về thầy cô giáo: thầy cô thân thiện hơn, dễ gần hơn; thầy cô biết kiềm chế sự tức giận; áp dụng
kỷ luật tích cực với học sinh mắc lỗi.
5.1.3. Đối với cán bộ quản lý
Cán bộ quản lý cũng đã nâng cao nhận thức của mình về tầm quan trọng của nhà trường trong việc phát
triển toàn diện của học sinh và về vai trò của nhà trường trong việc xây dựng trường học ATTTBĐ trên cơ
sở giới cho học sinh. Cán bộ quản lý các đơn vị trường tham gia đầy đủ các buổi tập huấn do Sở GDĐT tổ
chức; triển khai đầy đủ các nội dung được yêu cầu đến toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh
toàn trường; tích cực chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất, hoàn thiện phòng tư vấn và chuẩn bị về đội
ngũ để công tác tư vấn tâm lý cho học sinh được thực hiện đúng kế hoạch.
5.1.4. Đối với cha mẹ học sinh
Cha mẹ học sinh đã có sự nhận thức đúng về các hoạt động của mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở
giới, qua đó chủ động hỗ trợ giáo viên, cán bộ tham vấn, học sinh giải quyết vấn đề BLHĐTCSG; đã có sự
thay đổi trong nhận thức và hành động: đó là đã hạn chế đánh con khi con làm trái ý mình. cha mẹ học
sinh sau khi được tư vấn đã gần gũi và quan tâm tới con hơn. sẵn sàng lắng nghe và hỗ trợ con mình khi
gặp khó khăn ở trường. cha mẹ học sinh biểu hiện quan tâm tới dự án và mong muốn phối hợp với nhà
trường xây dựng trường học an toàn, không bạo lực. Đã có 51.013 mẹ và 53.677 bố đã được nâng cao
nhận thức về BLHĐTCSG và kỹ năng hỗ trợ con phòng tránh bạo lực thông qua các buổi truyền thông
cho cha mẹ tại buổi họp trên lớp.
5.2. Đánh giá chung về hiệu quả, sự phù hợp và khả thi của mô hình trường học an toàn, thân thiện,
bình đẳng trên cơ sở giới
5.2.1. Sự phù hợp và khả thi
Mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới có cách tiếp cận tổng thể và hệ thống để giải quyết vấn đề
BLHĐTCSG; phù hợp với các văn bản chỉ đạo hiện hành của Chính phủ và của ngành Giáo dục về xây
dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, bình đẳng. Mô hình này không chỉ giúp giáo dục học sinh
để nâng cao kiến thức và kỹ năng của các em trong phòng tránh và xử lý khi đối diện với bạo lực giới, dự
án còn nâng cao năng lực cho BGH và cán bộ giáo viên trong trường để tạo một môi trường thuận lợi cho
việc hình thành và duy trì thái độ bình đẳng giới trong học sinh.
Hoạt động của mô hình rất thiết thực và phù hợp với các hoạt động diễn ra trong các nhà trường. Các hoạt
động dự án phù hợp với định hướng của ngành giáo dục về xây dựng trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới.
Trong bối cảnh BLHĐTCSG xảy ra phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau (bạo lực thể chất, bạo lực tinh
thần, bạo lực qua mạng và quấy rối tình dục) và gây ra nhiều hậu quả, ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh
thần và kết quả học tập của học sinh, các can thiệp của dự án rất phù hợp và hỗ trợ đẩy lùi bạo lực học đường.
Chương trình GDPT 2018 đã đưa các nội dung giáo dục về xây dựng môi trường an toàn, thân thiện,
bình đẳng vào trong một số môn học và hoạt động giáo dục, thể hiện rõ nét nhất là ở môn Giáo dục
công dân và Hoạt động Trải nghiệm, hướng nghiệp. Vì vậy, việc triển khai nhân rộng mô hình trường học
ATTTBĐ trên cơ sở giới sẽ rất phù hợp, thông qua việc lồng ghép, tích hợp nội dung các hoạt động của

14 Hướng dẫn xây dựng trường học an toàn, thân thiện, bình đẳng, phòng chống bạo lực học đường trên cơ sở giới

mô hình vào trong các môn học (GDCD, HĐ
trải nghiệm, hướng nghiệp…), các hoạt động
giáo dục trong trường học (câu lạc bộ, diễn
đàn, cuộc họp cha mẹ học sinh,..).
5.2.2. Tính hiệu quả
Mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới
đã cho thấy thành công và hiệu quả rõ rệt
trong giải quyết vấn đề BLHĐTCSG. Học sinh
ở các trường triển khai Mô hình đã được
trang bị các kỹ năng cần thiết và cảm thấy
vững vàng hơn trong xử lý các tình huống để
đảm đảm an toàn cho bản thân và bạn bè với môi trường xung quanh trường học và trên đường đi học.
Tỷ lệ học sinh bị bạo lực thể chất và tinh thần đã giảm đáng kể so với số liệu khảo sát khi bắt đầu triển khai
Mô hình. Nhận thức về giới của GVCN tăng lên, giáo viên cũng báo cáo họ đã giảm các biện pháp kỷ luật
mang tính trừng phạt đối với học sinh, tăng cường thực hành các phương pháp giáo dục tích cực; đồng
thời thu hẹp khoảng cách giữa học sinh và giáo viên, tạo mối quan hệ thân thiện trong trường học. Gần
100% học sinh đánh giá cao tính phù hợp và cần thiết của các bài giảng của Mô hình do GVCN tiến hành,
hơn 75% các em học sinh đã có kỹ năng cần thiết để sẵn sàng giúp đỡ bạn bè khi bị bạo lực; trên 75%
đã có những thay đổi tích cực trong thái độ và cách cư xử với bạn bè; tăng 30% số học sinh luôn chia sẻ
và tìm kiếm sự hỗ trợ của cha mẹ và tăng 20% học sinh đã luôn chia sẻ và tìm kiếm sự hỗ trợ của thầy cô.
Mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới làm thay đổi tích cực cả về thái độ, hành vi của giáo viên, quản
lý nhà trường về giới, bình đẳng giới và bạo lực trên cơ sở giới. Qua thời gian thực hiện thí điểm, học sinh
và giáo viên được tôn trọng và cảm thấy an toàn hơn trong ngôi trường của mình; đội ngũ cán bộ quản
lý, giáo viên đã phát huy hết tinh thần trách nhiệm của mình trong công việc, hoàn thành các nội dung
liên quan đến phòng chống bạo lực học đường mà Dự án yêu cầu, góp phần thúc đẩy tình đoàn kết nội
bộ, cùng nhau xây dựng một trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới. Qua đó, góp phần nâng cao vai trò chủ
động của học sinh, thầy cô giáo và cha mẹ học sinh trong việc phòng chống BLHĐTCSG, hướng tới môi
trường học đường an toàn, thân thiện và bình đẳng đối với tất cả mọi người và giải quyết những nạn bạo
lực trong trường học với tính bền vững cao.
Mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới đã chứng minh hiệu quả của các hoạt động bổ trợ lẫn nhau
trong việc đạt được những kết quả đầu ra theo kế hoạch, để nhân rộng và mở rộng những hoạt động này,
đồng thời cung cấp nhiều hiểu biết hữu ích để định hướng cho các chính sách và chương trình bảo vệ trẻ
em. Hoạt động triển khai thí điểm mô hình đã đạt được các mục tiêu chính là nâng cao năng lực cho các
trường học ở 5 tỉnh nhằm thúc đẩy các chuẩn mực ứng xử bình đẳng giới và ngăn ngừa, ứng phó với vấn
đề bạo lực giới ở trong và xung quanh trường học, gắn kết các em gái và em trai vị thành niên vào công
tác ngăn ngừa và ứng phó với BLHĐTCSG, thúc đẩy sự công nhận chính thức của Sở GDĐT 5 tỉnh đối với
mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới để có thể tiếp tục duy trì các hoạt động và nhân rộng mô hình
này trong hệ thống giáo dục. Mặc dù, những thay đổi rõ ràng về thái độ, hành vi ứng xử tích cực đạt được
qua quá trình triển khai mô hình có thể sẽ tiếp tục chuyển biến sâu sắc hơn, hơn nữa khoảng thời gian 3
năm triển khai chưa đủ để giải quyết triệt để những khía cạnh kinh tế – xã hội, văn hoá phức tạp của vấn
đề bạo lực đối với trẻ em. Tuy nhiên, quá trình triển khai mô hình đã giúp các đối tượng tham gia nâng
cao nhận thức về BLHĐTCSG và cũng như công tác phòng ngừa và ứng phó.
5.2.3. Tính bền vững
Trường học ATTTBĐ trên cơ sở giới đã chuẩn bị sẵn sàng cho Sở GDĐT của 5 tỉnh cũng như các trường

TÀI LIỆU DÀNH CHO CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ 15
can thiệp bằng cách cung cấp tài liệu nguồn và tài liệu tập huấn cho giáo viên, các buổi học trên lớp cho
học sinh và kinh nghiệm triển khai nhiều hoạt động khác nhau. Mô hình trường học ATTTBĐ trên cơ sở
giới đã khẳng định trường học là địa điểm lý tưởng để phòng ngừa và ứng phó với vấn đề BLHĐTCSG bởi
đây là một khu vực quan trọng đối với thiếu nhi ở những giai đoạn phát triển khác nhau và cũng là nơi cho
những sáng kiến đổi mới và linh hoạt. Trẻ em được trao quyền trong công tác phòng chống bạo lực và
gắn kết sự tham gia với tư cách công dân. Sự tham gia có ý nghĩa và hoạt động truyền thông liên thế hệ
đã cho phép các em gái và em trai đứng lên như những tác nhân tạo nên sự thay đổi hiệu quả. Chúng ta
có cơ hội rất lớn để khai thác tiềm năng của các em nhằm thúc đẩy nhạy cảm giới và tự bảo vệ bản thân,
truyền thông giữa bạn bè đồng trang lứa và gắn kết sự tham gia của phụ huynh. Các hoạt động bổ trợ lẫn
nhau bao gồm tiết học trên lớp, tập huấn cho giáo viên, gắn kết sự tham gia của bạn bè thông qua các
em Thủ lĩnh thay đổi, dịch vụ tư vấn tại trường học và giáo dục cho phụ huynh đã giúp giải quyết các kế
hoạch của triển khai một cách thích hợp.